Âm phủ - kỳ 9
8/4/12
0
nhận xét
Bước lên đống gạch rời, ông cúi xuống bên mép lỗ thông gió, dòm vô.
- À... cô có sẵn cây đèn pin đó không?
Ông hỏi. Penny đi lấy một cây. Ông nhận cây đèn pin và rọi xuống lỗ hổng.
- Thành lát gạch, tôi dám nói là đầu thế kỷ mười tám, dường như được xây cùng thời với cái nhà.
Ông lẩm nhẩm một mình trong lúc ông Joe Khóm và cô con gái nhìn ông với vẻ căng thẳng.
- Nhưng mà cái quỷ này để làm gì?
Ông lẩm nhẩm tiếp. Điều lạ lùng nhất là khi ông chồm tới để nhìn xuống, ông chẳng thấy đáy nó ở đâu cả. Ông đứng thẳng lên, hỏi Penny:
- Cô thử nó sâu cỡ nào chưa?
Cô ta trả lời đơn giản:
- Bằng cái gì?
- Tôi xin cái này nhé?
Tiến sĩ Burrows cầm lên một nửa miếng gạch từ đống gạch vụn của bức tường sụp. Cô Penny gật đầu. Ông bèn quay lại miệng hố, chọn thế đứng, liệng viên gạch xuống.
- Bây giờ nghe nhé.
Ông nói với hai cha con ông Joe Khóm khi thả viên gạch xuống miệng lỗ thông gió. Họ nghe tiếng viên gạch chạm vào thành ống khi rơi. Âm thanh mỗi lúc một xa vắng cho đến khi vọng âm yếu ớt vọng lại tai tiến sĩ Burrows. Ông đang quỳ bên lỗ hổng.
Penny hỏi:
- Nó có..?
- Suỵt!
Tiến sĩ Burrows giơ tay lên ngăn cô ta một cách bất lịch sự, khiến cô giật mình. Một lát sau ông ngước lên chau mày nhìn ông Joe Khóm và cô Penny. Ông nhận định:
- Không nghe nó chạm đáy. Nhưng nghe như nó cứ va vô thành ống hoài. Làm sao... làm sao nó có thể sâu tới cỡ đó?
Sau đó, dường như chẳng màng đi bụi đất dơ bẩn, ông nằm dài xuống sàn, thòng đầu và vai xuống cái lỗ sâu đến mức có thể, săm soi bóng tối bên dưới ông bằng ánh sáng cây đèn pin mà ông duỗi thẳng tay ra cầm để rọi. Thình lình ông sửng sốt, bắt đầu hít hửi kỹ lưỡng.
- Không lẽ nào!
Ông Joe Khóm hỏi:
- Cái gì vậy, ông Burrows? Có gì phải trình báo không?
Tiến sĩ Burrows ngóc đầu lên khỏi lỗ trống, nói:
- Có thể tôi nhầm, nhưng tôi thề là có một tí hơi gió thông lên. Tại sao lại có, tôi thật không biết – trừ phi toàn bộ khu nhà được xây với kiểu hệ thống thông gió thế nào đó giữa các ngôi nhà. Nhưng mà cả đời tôi cũng không thể hình dung ra được tại sao phải cần tới chúng. Điều đáng tò mò là đường ống...
Ông lăn qua, nằm ngửa, chĩa cây đèn pin hướng lên phía trên lỗ trống.
- ... có vẻ như thông tuốt lên trên, ngay sau ống khói lò sưởi thông thường. Tôi đoán là nó cũng thông gió như một phần của cụm ống khói trên nóc nhà chăng?
Điều mà tiến sĩ Burrows đã không nói với hai cha con ông Joe Khóm là ông lại ngửi phải cái mùi ẩm mốc đặc biệt: giống y cái mùi ông đã nhận ra khi đụng phải người-đội-mũ trên đường High hôm trước – Ông không dám nói với họ, bởi vì nghe có vẻ quái đản rùng rợn quá.
***
Ở dưới đường hầm, Will và Chester cuối cùng đã có tiến bộ. Hai đứa nó đang đào lớp đất mềm bên dưới tảng đá thì mũi cuốc chim của Will chạm phải cái gì đó cứng rắn. Nó cáu kỉnh la lên:
- Cà chớn! Đừng bảo tao là đá cũng thò xuống đây.
Chester lập tức quăng cái xe cút kít chạy từ phòng lớn đến. Ngạc nhiên vì tiếng la, nó hỏi:
- Chuyện gì vậy, Will?
- Cứt, cứt, cứt.
Will vừa nói vừa bổ mạnh lưỡi cuốc vào chướng ngại vật. Chester hét:
- Cái gì? Cái gì vậy?
Nó hoảng hốt vì trước đây chưa bao giờ thấy Will mất bình tĩnh như vậy; nó giống như một thằng bị ma ám.
Will giáng mạnh thêm những nhát cuốc, hùng hục bổ như điên vào mặt đá. Chester buộc phải lùi lại một bước để khỏi bị nó vung cuốc trúng phải, hay bị đám đất đá vụn nó hất ra sau văng trúng.
Bỗng nhiên Will ngừng tay và im lặng một lát. Sau đó, liệng cây cuốc chim qua một bên, nó quỳ thụp xuống, dùng tay bới móc loạn xạ phía trước mặt nó.
- Đây, nhìn thử coi!
- Nhìn cái gì?
Will nói đứt hơi:
- Tự nhìn đi.
Chester bò xuống và thấy cái đã khiến cho bạn nó hào hứng dữ vậy. Ở chỗ Will đã gạt hết đất, lộ ra nhiều lớp của bức tường gạch nằm bên dưới tảng sa thạch, và Will đã khượi ra được vài viên gạch đầu tiên.
Chester lo lắng nói:
- Nhưng nếu đó là đường ống cống hay đường xe điện ngầm, hay cái gì tương tự thì sao? Mày có chắc là tụi mình nên đào như vầy không? Biết đâu nó liên quan đến ống dẫn nước. Tao không thích chuyện này!
- Bình tĩnh lại, Chester, theo bản đồ thì chung quanh đây không có gì hết. Tụi mình đang ở ngoài rìa của một thành phố cổ, đúng không?
Chester không rõ ý tứ của bạn nó, ngập ngừng nói:
- Đúng.
- Vậy thì, sẽ không có bất cứ thứ gì được xây dựng trong vòng một trăm đến một trăm rưởi năm gần đây – cho nên khó mà có đường xe điện ngầm ở tuốt dưới này, ngay cả đường ngầm không sử dụng. Tao đã xem hết mấy bản đồ cũ với ba tao. Tao nghĩ đây có thể là một ống cống. Nhưng nếu mày nhìn kỹ đường cong của gạch tiếp giáp với đá, thì có thể tụi mình đang ở gần trên miệng cống. Nó có thể là vách tầng hầm của một căn nhà cổ – hoặc có lẽ là nền, nhưng tao thắc mắc làm sao mà nó được xây bên dưới tảng sa thạch? Kỳ lạ thật.
Chester lùi lại hai bước không nói gì, cho nên Will tiếp tục dốc sức ra thêm vài phút nữa rồi ngừng lại, nhận ra thằng bạn nó vẫn đang phân vân lo lắng đằng sau lưng. Will quay lại, thở ra một hơi dài.
- Nghe đây, Chester, nếu mày muốn thì tụi mình ngừng bữa nay, và tối nay tao sẽ hỏi lại ba tao. Để coi ba nghĩ sao.
- Ừ, mày nên làm vậy, Will à. Mày biết đấy... để phòng xa.
***
Tiến sĩ Burrows chia tay ông Joe Khóm và cô con gái ông ta, hứa sẽ hết sức tra cứu về ngôi nhà và kiến trúc trong hồ sơ lưu trữ địa phương. Ông liếc nhìn đồng hồ đeo tay, nhăn nhó. Ông biết là bỏ viện bảo tàng đóng cửa lâu như vậy là không đúng, nhưng ông muốn xem xét một việc trước khi trở lại đó.
Ông đi vòng quanh quảng trường nhiều lần, xem xét những ngôi nhà liên kế giáp bốn cạnh. Toàn bộ quảng trường đã được xây dựng cùng một lúc, căn nào y như căn nấy. Nhưng cái khiến ông thú vị là tất cả những căn nhà này có thể đều có ống thông gió bí mật chạy xuyên khắp. Ông băng qua đường, đi xuyên qua cổng, đi vào giữa quảng trường, nơi được lát gạch ở trung tâm, chung quanh viền bằng những bụi hoa hồng rườm rà. Đứng đó ông có thể quan sát rõ những mái nhà, và ông giơ giơ ngón tay như thể cố đếm chính xác coi mỗi nóc nhà có mấy cái chụp ống khói.
Ông cau mày:
- Không tính ra được. Quả thật là kỳ lạ.
Ông quay đi, rời khỏi quảng trường, đi trở về viện bảo tàng, tới nơi vừa vặn hết giờ mở cửa tham quan.
Trong đêm sâu, Rebecca đứng bên cửa sổ trên lầu nhìn một cái bóng mờ lảng vảng trên lề đường phía trước ngôi nhà của gia đình Burrows. Cái bóng đó, khoác áo trùm đầu lại đội mũ nên mặt mũi bị che khuất, lén lút rình ngó ngược xuôi con đường, hành tung giống như một con cáo chứ không ra con người.
Khi yên chí là không bị quan sát, kẻ đó sà xuống mấy bao rác để trong thùng, chụp một bao bự nhất, móc một cái lỗ rồi nhanh nhẩu lục lọi bên trong bằng cả hai tay.
- Bộ mày tưởng tao ngu lắm sao?
Rebecca nói thầm, hơi thở của nó phả mờ lớp kính khung cửa sổ phòng ngủ. Nó chẳng bận tâm chút xíu nào cả. Tuân theo sự cảnh báo về bọn ăn cắp căn cước ở vùng Highfield, con nhỏ đã tiêu hủy kỹ càng mọi thư từ chính thức, thẻ tín dụng và báo cáo tài khoản của ngân hàng – thực tế là bất cứ cái gì có chứa thông tin cá nhân của người trong gia đình.
Trong lúc vội vã lục tìm gì đó, gã móc rác đã làm văng đổ rác ra khỏi bao. Mấy lon đồ hộp rỗng, những hộp đựng đồ ăn, và một mớ chai bị vung vãi ra bãi cỏ trước nhà. Hắn lôi ra một nắm giấy tờ, đưa lên sát mặt, xoay chúng trong nắm tay trong lúc hắn soi mói nắm giấy dưới ánh đèn đường mờ mờ.
Rebecca thách thức gã móc rác:
- Tìm nữa đi. Cố tàn mạt luôn.
Phủi bã cà phê cũ nhờn khỏi một mẩu giấy trong tay, hắn xoay người lại để có thể đọc rõ hơn dưới ánh đèn đường.
Rebecca nhìn hắn luống cuống đọc lá thư, con nhỏ mỉm cười khi hắn nhận ra tờ giấy chẳng có giá trị gì. Hắn vung cánh tay với vẻ ghê tởm, quăng tờ giấy đi.
Rebecca đã ngao ngán rồi. Từ nãy giờ nó đã tì trên bậu cửa sổ, bây giờ nó đứng lên, kéo màn ra.
Động tác đó khiến gã móc rác chớp mắt ngước nhìn lên. Hắn nhìn thấy Rebecca và lặng đi, rồi xoay người ngó ngược ngó xuôi con đường, hắn lỉnh đi, vừa ngoái lại nhìn Rebecca như thể ước chừng xem nó có gọi cảnh sát không.
Rebecca nắm tay lại tức tối, vì biết rằng nó sẽ là đứa phải hốt dọn cái đống tùm lum ấy vào sáng sớm. Lại thêm vô danh sách việc phải làm một công việc đáng ngán nữa!
Con nhỏ kéo màn lại, rời khỏi cửa sổ đi ra khỏi phòng tới chỗ đầu cầu thang. Nó đứng lại, lắng nghe; tiếng ngáy vang lên không được êm tai lắm. Rebecca nhẹ bước tới cửa phòng ngủ chính, lập tức nhận ra âm thanh quen thuộc. Bà Burrows đang ngủ. Trong khoảnh khắc yên ắng sau đó, nó lắng nghe kỹ hơn, cho đến khi nó có thể phân biệt tiếng thở có âm mũi dài của tiến sĩ Burrows, rồi ngóng cổ về phía buồng ngủ của Will, lại lắng nghe đến khi nó bắt được nhịp thở cạn và nhanh của anh nó.
Con nhỏ hí hửng hất đầu nói khẽ.
- Tốt.
Mọi người ngủ say sưa. Con nhỏ lập tức thấy dễ chịu. Bây giờ mới là thời gian của nó, khi nó có nguyên căn nhà riêng mình và có thể làm cái gì nó muốn. Thời gian trước khi những người kia thức dậy và mọi việc lại tùm lum ra. Nó so vai lại, bước êm ru đến ngưỡng cửa phòng ngủ của Will nhìn vào.
Chẳng có gì chuyển dịch. Tựa như một cái bóng nhẹ nhàng di chuyển ngang qua căn phòng, nó lướt nhanh như làn gió đến bên giường Will. Nó đứng đó, chăm chú ngó xuống anh mình. Will nằm ngửa, hai cánh tay thả lỏng vắt không ngay ngắn phía trên đầu. Dưới ánh trăng nhợt nhạt được lọc qua màn cửa sổ khép nửa chừng, nó nghiên cứu gương mặt Will. Nó bước đến gần cho đến khi nó cúi xuống ngay trên gương mặt anh nó.
Nó nghĩ: “Chà, trông hắn kìa, chẳng màng gì trên thế gian.” Nó cúi xuống thấp hơn nữa bên trên cái giường. Khi làm như vậy nó nhận ra một vết bẩn ngay dưới mũi anh nó.
Mắt nó rà khắp thằng con trai ngủ say không hay biết gì hết cho đến khi dừng lại ở hai bàn tay của Will. “Bùn!” Tay Will bám đầy bùn đất. Thằng nhóc chẳng thèm rửa tay trước khi lên giường ngủ, đã vậy, hẳn là nó đã thò tay móc mũi trong lúc ngủ.
Con nhỏ rít lên khe khẽ:
- Đồ chó dơ.
Nhiêu đó đủ quấy rầy thằng nhóc. Nó duỗi cánh tay, co mấy ngón tay. Sung sướng vô tư và không hay biết về sự có mặt của Rebecca, nó ậm ừ mấy tiếng khoái trá trong cổ họng, vặn vẹo thân hình một tí, rồi ngủ tiếp.
Cuối cùng Rebecca thì thầm:
- Đúng là đồ vô tích sự.
Con nhỏ quay lại đống đồ dơ mà Will đã quăng trên sàn. Con nhỏ nhặt lên, ôm trong tay, đi ra khỏi phòng, tới cái giỏ mây đựng quần áo để giặt đặt ở một góc đầu cầu thang. Lúc mò các túi áo túi quần trước khi tống chúng vào giỏ, nó bắt được mẩu giấy trong túi quần jeans của Will. Nó mở mẩu giấy ra, nhưng không đọc được gì hết trong ánh sáng quá mờ.
Con nhỏ nghĩ, có thể chỉ là rác, rồi nhét mẩu giấy vô túi áo ngủ của nó. Khi rút tay ra, móng tay nó bị vướng đường may ráp. Nó thận trọng gặm cạnh mẻ của móng tay và đi về phòng ngủ chính. Khi đã vô phòng rồi, nó canh bước đi trên những chỗ chính xác mà ván lát sàn dưới tấm thảm te tua không kêu cót két tố cáo sự hiện diện của nó.
Cũng giống như lúc nãy nó quan sát Will ngủ, bây giờ nó quan sát ông bà Burrows, như thể nó đang cố gắng đoán biết suy nghĩ của cha mẹ nó. Tuy nhiên ngắm được mấy phút, Rebecca thấy đủ rồi, bèn thu dọn cái ca của bà Burrows đặt trên cái bàn cạnh giường ngủ, ngửi thăm dò cái ca một cái. Lại Horlicks, nghe như mùi rượu mạnh. Cầm cái ca trong tay, Rebecca nhón gót đi ra khỏi phòng, đi xuống cầu thang, đi vô nhà bếp, di chuyển thoải mái trong bóng tối.
Đặt cái ca vô chậu rửa chén xong, con nhỏ quay lại, đi ra khỏi nhà bếp, trở ra hành lang. Ở ngoài hành lang nó đứng lại, hơi ngoẹo đầu sang bên một tí, mắt nhắm lại, lắng nghe.
Nó nghĩ: “Êm ghê... và yên tĩnh. Lẽ ra cứ nên như vầy hoài.” Như thể một người bị thôi miên, nó cứ đứng đó, không nhúc nhích, cuối cùng nó hít một hơi thở sâu bằng mũi, nín hơi vài giây, rồi thổi phù ra bằng miệng.
Có tiếng ho khục khặc trên lầu. Rebecca bực bội quắc mắt hướng lên cầu thang. Phút thảnh thơi của nó đã bị phá vỡ, suy tư của nó đã bị gián đoạn.
Nó cay đắng nói:
- Mình phát chán hết rồi.
Nó nhẹ bước đến cửa trước, mở chốt xích an toàn, rồi đi vô phòng khách. Bức màn cửa sổ được kéo mở hết cỡ nên nó có thể nhìn thông thoáng ra vườn sau lốm đốm từng mảng ánh trăng chuyển dịch. Mắt nó vẫn hướng ra vườn khi nó ngồi xuống cái ghế bành của bà Burrows, xoay ngược lại để tiếp tục ngắm khu vườn và bờ giậu ngăn khu vườn và công viên. Và nó cứ ngồi đó, thưởng ngoạn nỗi cô đơn của đêm và được ôm ấp trong bóng đêm màu sô-cô-la. Cho đến gần sáng. Ngồi đó mà ngắm.
Trong đêm sâu, Rebecca đứng bên cửa sổ trên lầu nhìn một cái bóng mờ lảng vảng trên lề đường phía trước ngôi nhà của gia đình Burrows. Cái bóng đó, khoác áo trùm đầu lại đội mũ nên mặt mũi bị che khuất, lén lút rình ngó ngược xuôi con đường, hành tung giống như một con cáo chứ không ra con người.
Khi yên chí là không bị quan sát, kẻ đó sà xuống mấy bao rác để trong thùng, chụp một bao bự nhất, móc một cái lỗ rồi nhanh nhẩu lục lọi bên trong bằng cả hai tay.
Ngày hôm sau, Tiến sĩ Burrows có mặt trong viện bảo tàng, sắp xếp tủ nút bên dưới cửa sổ. Ông đang chồm qua kệ trưng bày, để thêm vài cái nút đồng đã gỉ xanh, mới được lựa ra từ mớ hổ lốn, vào chỗ trưng bày chung với những hàng nút nhựa dở dở ương ương, những cái nút ngọc trai hay tráng men đủ màu.
Ông hơi mất kiên nhẫn bởi vì những cái chân nút khiến cho những cái nút không cách gì nằm bằng phẳng trên tấm bảng nền được bọc nỉ, bất kể ông ấn chúng xuống mạnh cỡ nào. Ông thở hào hển vì giận dữ. Nghe thấy một tiếng còi xe vang ở ngoài đường, ông ngẫu nhiên liếc nhìn ra.
Thoáng qua khóe mắt ông là hình ảnh một người đàn ông đang đi bên lề kia của con đường. Hắn đội một cái mũ kết dẹp, mặc một áo khoác dài và mặc dù trời rõ ràng đầy mây râm mát, chỉ thỉnh thoảng lọt xuống chút nắng, hắn vẫn đeo một cặp kính râm đen hù. Rất có thể đây là người đàn ông mà tiến sĩ Burrows đã đâm sầm phải phía trước tiệm bán báo, nhưng ông không dám chắc, bởi vì những người này trông y chang nhau.
Những người này có gì mà thu hút sự chú ý của tiến sĩ Burrows dữ vậy? Ông cảm nhận tận xương tủy là có điều gì đó rất đặc biệt về họ, điều gì đó dứt khoát dị thường. Có vẻ như họ vừa bước thẳng ra từ một thời gian khác, có thể từ thời George, căn cứ vào y phục của họ. Đối với Tiến sĩ Burrows thì chuyện này có tầm ý nghĩa tương đương với việc tìm ra một mẩu lịch sử sống, giống những báo cáo mà ông đã đọc về những người đánh cá châu Á giăng lưới bắt cá vây hay thậm chí một chuyện gì đó còn quái chiêu hơn thế... khám phá một “kết nối sót” trong tiến hóa của con người chẳng hạn. Những chuyện như vậy khiến ông mơ mộng và bay bổng khỏi cuộc sống tẻ nhạt và buồn chán của mình.
Không bao giờ là người buông thả vào những cơn ám ảnh, tiến sĩ Burrows ngoéo chặt vào thực tế. Phải có một giải thích hợp lý về hiện tượng người-đội-mũ. Ông quyết tâm phải tìm hiểu hiện tượng đó là gì.
Ông quyết định ngay tức thì:
- Được. “Ngay bây giờ” là thời điểm tốt nhất.
Ông đặt cái hộp nút xuống và vội vã băng qua viện bảo tàng đi tới cửa chính, đi ra khóa cửa lại. Khi ông bước ra đường, ông xác định được vị trí của người-đội-mũ ở đằng trước, bèn đi theo hắn xuống đường High, giữ một khoảng cách khá lớn giữa hai người.
Tiến sĩ Burrows theo kịp người đàn ông khi hắn bỏ đường High, quẹo vào đường Disraeli, rồi băng qua đường để quẹo phải vào đường Gladstone, ngang qua tu viện nữ cũ. Ông đi sau hắn khoảng hai mươi mét, bỗng dưng hắn ngừng bước đột ngột và quay phắt lại nhìn thẳng vào ông.
Tiến sĩ Burrows rùng mình ớn sợ khi thấy bầu trời phản chiếu trên mặt kính râm của người đàn ông, biết là trò chơi lộ rồi, nên lập tức quay mặt về hướng ngược lại. Không biết phải làm sao khác, ông ngồi xổm xuống, giả bộ cột sợi dây giày tưởng tượng của đôi giầy chỉ cần xỏ chân vô mang chứ không cần xỏ dây của ông. Vẫn trong tư thế ngồm chồm hỗm, ông len lén liếc mắt qua vai mình, nhưng người đàn ông kia đã hoàn toàn biến mất.
Hai mắt đảo như điên rà soát con đường, tiến sĩ Burrows bắt đầu bước gấp gáp, rồi ù chạy khi tới gần chỗ mà ông đã nhìn thấy đối tượng theo dõi lần cuối cùng. Tới chỗ đó ông mới phát hiện một lối vào hẹp té giữa hai nhà tế bần nho nhỏ. Ông hơi ngạc nhiên là hồi nào đến giờ ông đã đi qua đường này bao phen mà trước đây chưa hề để ý. Lối vào này có một cái cổng mở hình khung tò vò chạy sâu vô trong như một con đường hầm cho đến khi khuất phía sau nhà tế bần, rồi lại hiện ra một đoạn ngắn như một con đường hẻm không có vòm che. Tiến sĩ Burrows dòm vô, nhưng vì ánh sáng không rọi thấu lối đi đó nên ông cũng khó mà thấy được gì nhiều. Cố nhìn xuyên bóng tối, ông có thể thấy cái gì đó ở cuối lối đi. Đó là một bức tường, cắt ngang con hẻm. Một ngõ cụt.
Xem xét con đường một lần cuối, ông lắc đầu, không thể nào tin được. Ông không thể hiểu người đàn ông kia có thể đi lối nào mà biến mất tăm nhanh chóng như vậy. Ông bèn lấy hơi hít sâu một cái và khởi bước vào lối đi. Ông dò dẫm từng bước thận trọng, lo lắng là người đàn ông kia có thể đang rình ông ở một cánh cửa nào đó ông không nhìn thấy.
Khi mắt ông quen với bóng tối, ông có thể thấy mấy hộp giấy cứng thấm ướt và mấy chai sữa hầu như vỡ cả, lăn lóc khắp trên mặt đường lát đá. Ông hầu như thấy nhẹ nhõm khi lại bước ra vùng ánh sáng, bèn đứng lại nghiên cứu hiện trường. Con hẻm được hình thành giữa những bức tường bao bọc vườn rau bên trái và bên phải, và kết thúc bằng bức tường của một nhà máy cao ba tầng nằm ở cuối con hẻm. Tòa nhà máy cũ kỹ không có cửa sổ nào phía dưới tầng lầu chính và không có cách nào khả dĩ giúp cho gã đàn ông kia trốn thoát.
RODERICK GORDON & BRIAN WILLIAMS
0 nhận xét:
Đăng nhận xét