Your Adsense Link 728 X 15

Âm phủ - Giới thiệu

Posted by Kenny Phạm 8/4/12 0 nhận xét
Âm phủ là tập sách đầu tiên trong bộ sách nổi tiếng Tunnels của hai tác giả người Anh Roderick Gordon & Brian Williams, kể về những đứa trẻ dũng cảm, ưa thích mạo hiểm, và sẵn sàng sống chết cùng nhau. Tuổi Trẻ Online xin trích giới thiệu cùng bạn đọc tập sách đã từng được nhận xét "sẽ là bộ sách thay thế Harry Potter" cũng qua bản dịch của nhà văn Lý Lan.
Chương 1
Phập! Lưỡi cuốc chim bổ vào mảng tường đất, chạm phải vật rắn vô hình nào đó, nháng lửa, rồi cắm sâu vào lớp đất sét. Cái cuốc vang lên một tiếng phập ngán ngẩm, rồi dừng lại.
- Chắc là nó đấy, Will à.
Tiến sĩ Burrows bò tới trước trong đường hầm chật cứng. Trong không gian tù túng, ông vã mồ hôi, thở hồng hộc, bắt đầu cào xới lớp đất một cách nóng nảy, hơi thở thoát ra đặc quánh trong không khí ẩm ướt.
Dưới quầng sáng kết hợp từ hai ngọn đèn pha gắn trên mũ bảo hộ của hai cha con, mỗi bụm đất được cào xới ra để lộ rõ hơn sàn ván gỗ cũ kỹ bên dưới, bày ra bề mặt nứt nẻ với các vân gỗ được tráng hắc ín.
- Đưa cho ba cái xà beng.
Nhân vật chính của truyện, Will Burrows là một đứa trẻ 14 tuổi sống cùng gia đình ở London. Cậu bé có rất ít điểm chung với mọi người trong nhà trừ niềm đam mê đào bới khảo cổ với cha mình – một tiến sĩ cổ vật không gặp thời.
Khi người cha đột nhiên biến mất, Will cùng người bạn là Chester quyết định lần theo một đường hầm bí mật để tìm tung tích cha mình, đồng thời cũng là thỏa mãn thú đam mê đào bới để lý giải những điều chưa từng được ai biết đến.
Ngay khi chúng tìm thấy một thế giới kỳ dị dưới lòng đất, hai đứa trẻ cũng phát hiện ra một sự thật kỳ bí và kinh hoàng – một sự thật mà có thể lấy đi cả mạng sống của chúng…
Will lục lọi trong cái túi đeo lưng, tìm được một cây xà beng cùn ngắn ngủn, đưa cho ba nó. Ông đang chăm chú nhìn vào mảng gỗ trước mặt. Cố chèn đầu dẹt của cây xà beng vào giữa hai mảnh ván, Tiến sĩ Burrows nghiến răng khi đè hết trọng lượng cơ thể mình lên cán xà beng để tạo lực đòn bẩy.
Rồi ông bắt đầu nạy từ mép này đến mép kia. Mấy mảnh ván kêu kèn kẹt, rên rỉ kháng cự lại những khớp lắp ghép gỉ sét, cho tới khi mảnh ván hết chịu nổi, vồng lên, rồi bục ra trong một tiếng kêu rắc rõ to. Will hơi lùi lại khi một luồng gió nhẹ ẩm lạnh thoát ra từ lỗ hổng mà Tiến sĩ Burrows vừa tạo nên.
Hai cha con hối hả rút thêm mấy mảnh ván nữa ra khỏi sàn, để lộ một lỗ hở rộng bằng bề ngang vai người, rồi dừng tay một lát trong im lặng. Cha và con quay đầu nhìn nhau, trao đổi một nụ cười thoáng qua đầy bí ẩn. Gương mặt của người này lờ mờ trong ánh sáng rọi ra từ chiếc đèn pha trên mũ của người kia, bê bết dấu vết cuộc vật lộn với bùn đất.
Hai người quay lại cái lỗ chăm chú nhìn những hạt bụi lơ lửng như những hạt kim cương tí ti, tựu rồi tan rồi tựu lại thành những chòm sao không tên trên nền tối như đêm của lỗ hổng.
Tiến sĩ Burrows thận trọng chồm qua khoảng trống. Will ép người bên cạnh cha để nhìn ké qua vai ông. Khi ánh sáng đèn pha rọi vào hố, một bức tường cong lát gạch hiện ra rất rõ. Đèn pha của họ rọi xuống sâu hơn, quét qua mấy tấm áp phích cũ đã long hồ ở góc, sút ra và phất phơ nhè nhẹ, như tua rong biển bị kẹt giữa những dòng chảy mạnh dưới đáy đại dương.
Will hơi ngẩng đầu lên một chút, để ánh sáng đèn pha quét xa hơn, cho tới khi nó bắt gặp một biển hiệu tráng men. Tiến sĩ Burrows dõi theo ánh đèn của con trai cho đến khi ánh sáng hai ngọn đèn pha của họ trùng nhau để soi tỏ cái tên trên biển hiệu.
- Highfield & Crossly North! Đúng là nó rồi, Will, đúng là nó! Chúng ta đã phát hiện nó!
Tiếng nói hồ hởi của Tiến sĩ Burrows vang vọng trong khoảng không giới hạn ẩm ướt của ga xe lửa bỏ hoang. Hai cha con cảm thấy một làn gió nhẹ thoảng qua mặt họ như thể có cái gì đó thổi dọc sân ga, xuôi xuống đường ray, như thể cái đó bị kinh hoảng bấn loạn vì sự đột nhập thô bạo vào hầm mộ đã đóng kín và bị lãng quên sau hàng bao nhiêu năm trời này.
Will đá loạn xị vào mấy sớ gỗ chân đế của chỗ thủng, làm những mảnh vụn gỗ ván mục bắn tung tóe, cho tới khi cái sàn dưới chân nó bỗng dưng trượt đi và banh ra thành một cái hang. Nó bò qua khoảng trống, vớ theo cái xẻng. Tiến sĩ lập tức theo sau. Hai cha con gây ra mấy tiếng răng rắc khi vượt được mấy bước trên bề mặt rắn chắc của sân ga, tiếng chân họ vang vọng, ngọn đèn pha trên mũ họ soi những luồng sáng vào cõi mù mờ chung quanh.
Mạng nhện giăng chằng chịt trên nóc và Tiến sĩ Burrows thổi phù phù khi một cái mạng nhện bám vào mặt. Khi ông nhìn quanh, ánh đèn pha của ông chiếu qua đứa con trai, một hình ảnh kỳ lạ của một mớ tóc trắng như rơm bị tẩy màu xù ra dưới cái mũ thợ mỏ đã cũ kỹ bầm dập, hai con mắt xanh nhạt của nó nhấp nhá sáng niềm say mê khi nó chớp chớp mắt nhìn vào bóng tối.
Khó miêu tả được áo quần của Will, đại khái quần áo nó có vẻ nhòe nhoẹt với đất sét bết vào thành một màu nâu đỏ. Sau trận đọ sức, đất bám vào khắp người nó, lên đến tận cổ, khiến nó trông giống như bức tượng của một nhà điêu khắc được phả cho sự sống một cách huyền bí.
Còn Tiến sĩ Burrows là một người đàn ông dẻo dai có chiều cao trung bình – người ta không thể miêu tả là ông cao, mà cũng không thể nói là ông lùn, đại khái là tầm thước. Mặt ông tròn trịa, đôi mắt nâu sáng trông càng sắc sảo nhờ đôi kính có tròng thạch anh và gọng vàng.
- Nhìn lên kia kìa, Will, nhìn cái đó đó!
Ông nói, đồng thời ánh đèn của ông soi vào một biển hiệu gắn bên trên cái lỗ trống mà hai cha con vừa chui vào. Cái biển ghi bằng chữ đen to đùng: LỐI RA. Hai cha con bật đèn soi cầm tay, và chùm ánh sáng kết hợp với ánh đèn yếu hơn gắn trên mũ cối xuyên thủng bóng tối để lộ ra nguyên một sân ga đầy đủ. Rễ cây lòng thòng dưới nóc, tường thì loang lổ từng mảng và vằn vện những sọc vôi bạc phếu ở những nơi kẽ nứt ngấm hơi ẩm. Hai cha con còn nghe thấy cả tiếng nước chảy đâu đó xa xa.
Với vẻ đắc thắng tự thưởng, Tiến sĩ Burrows nói:
- Con thấy phát hiện này sao? Thử nghĩ coi, chưa một người nào từng đặt chân xuống đây kể từ khi tuyến đường Highfield được làm vào năm 1895.
Hai cha con đã đi tới đoạn cuối của sân ga, Tiến sĩ Burrows lúc này đang chiếu đèn soi vào khoảng trống của đường hầm xe lửa ở bên cạnh. Một đống đất và gạch đá vụn đã bít miệng đường hầm. Tiến sĩ Burrows nói:
- Đầu kia cũng sẽ giống như vầy thôi – ắt là người ta đã bít cả hai đường hầm.
Khi hai cha con vạch đường đi dài theo sân ga, chăm chú ngó mấy bức tường, họ chỉ có thể nhận ra mấy mảnh gạch lát màu kem có cạnh màu xanh đen bị rạn nứt lung tung. Cứ cách khoảng ba thước thì nhô lên cao một ngọn đèn khí, trên chụp đèn bằng kính vẫn còn những con số.
Will kêu lên:
- Ba! Ba ơi, lại đây! Ba thấy mấy áp-phích này chưa? Còn đọc được đó. Con đoán mấy áp-phích này quảng cáo về đất đai hay gì đó. Tấm này còn rõ nè... Gánh xiếc của Wilkinson... sẽ diễn tại Sân Cộng Đồng... ngày 10 tháng 2 năm 1895. Có một tấm hình kìa.
RODERICK GORDON & BRIAN WILLIAMS

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Popular Posts