Your Adsense Link 728 X 15

P08: Nơi Nào Có Ý Chí, Nơi Đó Có Con Đường - Tập 1

Posted by Kenny Phạm 21/7/10 0 nhận xét
Tình bạn vĩ đại và một cuộc đời vĩ đại

“Kho tàng kinh nghiệm của một người sẽ bớt đi sự phong phú nếu không có bất kỳ khó khăn nào để vượt qua.” Đó chính là cuộc đời của Helen Keller (1880 - 1968) và tình bạn của bà với Anne Sullivan (1866 - 1936).
Tên đầy đủ của Helen là Helen Adams Keller, một nữ tác giả nổi tiếng thế giới và một giảng viên “đặc biệt” người Mỹ, người được Tổng thống Lyndon Johnson tặng thưởng Huân chương Tự do, tấm huân chương cao quý nhất của nước Mỹ dành cho những công dân có sự cống hiến xuất sắc cho cộng đồng. Bà sinh tại Tuscumbia, một thị trấn miền quê thuộc vùng tây bắc Alabama vào ngày 27/06/1880.
Tháng hai năm 1882, mười chín tháng sau khi cất tiếng khóc chào đời, Helen bị một cơn sốt bại não tấn công. Thời đó, nguyên nhân căn bệnh của Helen vẫn là một bí ẩn đầy thách thức đối với giới y khoa. Các bác sĩ đương thời gọi đó là “bệnh sốt não” trong khi các chuyên gia y tế ngày nay cho đó là bệnh ban đỏ hay chứng “viêm màng não”.
Lúc đó Helen rơi vào tình trạng sốt cao kéo dài nhiều ngày và chỉ biết nằm chờ chết. Nhưng kỳ lạ thay, cơn sốt bỗng dưng biến mất và cả gia đình bà vui mừng vì Helen sắp khỏe lại. Và Helen đã khỏe lại thật, nhưng thị lực và thính lực của cô bé đã không còn nữa. Mãi sau này mẹ bà mới phát hiện ra sự thật đau buồn đó khi không thấy Helen có phản ứng gì mỗi khi tiếng chuông báo giờ cơm gia đình vang lên, hoặc không hề chớp mắt khi bà huơ tay trước mặt cô bé.
Cô bé khốn khổ liên tục làm vỡ bát đĩa, chụp đèn, và mọi thứ vật dụng trong nhà. Cô sống trong nỗi bực dọc, cáu kỉnh triền miên và luôn làm phiền mọi người. Họ hàng cô bảo rằng cô cần phải được vĩnh viễn đưa vào một dưỡng viện dành cho trẻ khuyết tật, nhưng mẹ cô kịch liệt phản đối.
Năm lên sáu, Helen được mẹ đưa đi gặp các chuyên gia y tế để tìm kiếm một cơ may, nhưng cũng như các chuyên gia khác, họ xác nhận cô hoàn toàn mù và điếc. Họ không thể làm gì khác hơn để giúp đỡ cô bé ngoài việc động viên và giới thiệu mẹ con bà đến gặp một chuyên gia về các vấn đề của trẻ khiếm thính, Alexander Graham Bell (ông cũng chính là nhà phát minh ra chiếc điện thoại cho cả thế giới sử dụng đến ngày nay). Nhưng Bell cũng chỉ có thể giới thiệu Helen cho Michael Anagnos, hiệu trưởng Học viện Y khoa Perkins kiêm giám đốc Bệnh viện Tâm thần Massachusetts. Anagnos sau khi xem xét trường hợp Helen lại giới thiệu mẹ con bà đến gặp Anne Sullivan, một học trò cũ của ông, người sẽ kèm cặp Helen cách đọc chữ nổi Braille và “viết” bằng một chiếc máy chữ đặc biệt.
Gặp Anne Sullivan
Anne Sullivan cũng là người gần như mất hết thị lực vào năm lên năm. Sự mù lòa của bà cũng là di chứng của một trận sốt, nhưng không giống trường hợp của Helen. Năm 1876, mẹ bà qua đời và để lại hai anh em bà cho người cha, người đã ghẻ lạnh và sau đó gởi hai anh em bà vào trại tế bần. Hai năm sau, anh trai bà chết tại chốn cô quạnh đó. Bà ra đi và bắt đầu theo học tại Học viện Y khoa Perkins. Trong thời gian học tại Perkins, bà đã trải qua hai cuộc phẫu thuật mắt và lấy lại một phần thị lực đủ để đọc mỗi lần vài trang sách.
Năm 1886, Anne tốt nghiệp và đi tìm việc làm. Nhưng việc làm đối với một người yếu thị lực như bà vào thời đó không phải là chuyện dễ dàng. Và, như một cơ duyên, bà được Michael Anagnos giới thiệu làm gia sư cho một cô bé tên Helen Keller, sáu tuổi, và bà đã nhận lời một cách rất tự nguyện dù chưa hề có kinh nghiệm gì trong việc dạy người mù. Helen Keller và Anne Sullivan đã gặp nhau trong hoàn cảnh đó.
Ngày 03/03/1887, Anne đi Tuscumbia để gặp cô trò nhỏ. Để kỷ niệm lần “gặp” nhau đầu tiên này, Anne dạy Helen “đánh vần” chữ “doll” (búp bê) bằng cách sờ trên bảng chữ nổi Braille, và chữ thứ hai là chữ “cake” (bánh nướng). Song, dù Helen có thể nhận ra và ghép vần chính xác hai từ trên, cô vẫn không hiểu được nghĩa của chúng (vì thính giác của cô bé cũng mất hoàn toàn). Vì vậy, làm gia sư cho Helen quả là một sứ mạng đầy khó khăn đối với Anne, và càng gian nan hơn nữa khi Anne phải “chiến đấu” hàng ngày trong việc uốn nắn những thói hư tật xấu do sự “tăm tối” và tính khí thất thường của Helen gây ra, nhất là lối cư xử có thể gây bối rối cho mọi người trên bàn ăn (cô thường bốc thức ăn trong đĩa của người bên cạnh, dĩ nhiên đó là do cô không nhìn thấy gì  cả).
Nỗ lực sửa đổi các thói quen xấu trên bàn ăn của Helen cũng như hướng dẫn cô bé tự chải tóc hay cài nút áo chỉ làm Helen “phát khùng” hơn mà thôi. Tuy nhiên, sau gần một tháng kiên trì với Helen, Anne đã làm được điều mọi người cho là “một phép mầu”.
Nhưng hiểu được ý nghĩa của từ ngữ thì vẫn chưa có gì tiến triển. Cho tới một ngày, khi Anne dắt Helen ra vườn và vừa bơm nước vừa viết từ  “nước” vào lòng bàn tay cô bé, gương mặt Helen bỗng rạng ngời một niềm sung sướng. Cô đã hiểu từ “water” (nước) nghĩa là gì. Đó là ngày 05/04/1887.
Helen nhớ lại: “Lúc đó chúng tôi đi ra giếng nước trong vườn và ngây ngất trước hương thơm ngào ngạt của loài hoa honey-suckle. Cô giáo tôi viết từ “water” vào tay tôi trong khi rót một dòng nước mát lạnh vào tay kia, tôi đứng lặng cảm nhận cử động ngày càng nhanh của các ngón tay của Anne. Bất thình lình một cảm giác mơ hồ, bị lãng quên từ lâu đã sống dậy trong tôi. Một cảm xúc dâng trào và không hiểu sao sự bí ẩn của ngôn ngữ bỗng dưng hé mở với tôi”.
Trong vòng vài giờ sau sự kiện này, Helen đã học được 30 từ mới. Cô bé liến thoắng hỏi Anne về đủ mọi thứ cô chạm phải trong vườn: nào là tên của chiếc máy bơm, nào là hàng rào mắt cáo, rồi đến các loại cây, cỏ, hoa, lá, …
Sự tiến bộ của Helen gây sửng sốt cho tất cả những ai đã từng biết đến cô như một đứa trẻ vừa mù vừa điếc, lại bẳn tính và khó dạy. Chẳng bao lâu sau, Anne bắt đầu dạy Helen đọc chữ nổi, và sau đó là chữ trên bảng đục lỗ dành cho người mù (chữ Braille), rồi đến đánh máy chữ, cả loại có phím chữ nổi lẫn máy thường. Michael Anagnos trong nhiều bài báo đã gọi Helen là “một hiện tượng”. Những bài báo đó (đăng kèm bức ảnh Helen đang đọc Shakespeare hay đang đi dạo cùng chú chó cưng) góp phần tạo nên một làn sóng quan tâm rộng lớn trong xã hội về hiện tượng Helen.
Helen trở nên nổi tiếng khắp nước Mỹ. Trong một lần trở lại thăm Graham Bell, cô được Tổng thống Cleveland mời vào Nhà Trắng. Năm 1890 cô vào sống trong Học viện Perkins dưới sự dạy dỗ của Anne Sullivan. Tháng ba năm đó, cô được Mary Swift Lamson dạy nói. Tuy nhiên, dù Helen đã cố hết sức nhưng học nói không đơn giản như học “đánh vần”, học hiểu nghĩa hay học viết. Cô cố mường tượng và mấp máy môi và thanh quản theo cô giáo nhưng vô ích, bởi vì các dây thanh của cô đã không được rèn luyện để nói trước đó, khi cô còn bé.
Helen vào đại học
Năm 1896, Helen học trường Nữ sinh Cambridge cho đến mùa thu năm 1900, cô bước vào Đại học Radcliffe và trở thành người mù – điếc đầu tiên tại Mỹ (và có lẽ cả thế giới) đi học đại học.
Cuộc sống tại Radcliffe rất gian nan đối với Helen và Anne. Số lượng bài vở khổng lồ nhanh chóng làm hỏng thị lực của Anne. Trong thời gian này Helen viết tự truyện “The Story of My Life” bằng máy chữ Braille lẫn máy chữ thông thường. Năm 1903, sách được xuất bản nhưng bán không được bao nhiêu bản. Tuy vậy, đó vẫn là một trong những quyển sách kinh điển của nền văn học Mỹ. Ngày 28/06/1904, Helen trở thành người mù-điếc đầu tiên lấy được bằng Cử nhân của Đại học Radcliffe.
Sau đó, Anne kết hôn với John Albert Macy, người từng biên tập giúp Helen quyển “The Story of My Life” trước đó, và cả ba sống chung một nhà tại Wrentham, Massachusetts. Trong khoảng thời gian này, Helen viết cuốn “The World I live In” kể  lại những ý nghĩ đầu tiên của cô về thế giới xung quanh. Năm 1909, Anne trở thành thành viên của Đảng Xã hội Massachusetts.
Năm 1913, “Out of the Dark” được xuất bản. Đó là một loạt những bài viết về chủ nghĩa xã hội và nhờ đó, ảnh hưởng của Helen trước công chúng trở nên rất mạnh mẽ. Từ đây mọi người được biết thêm về quan điểm chính trị của Helen.
Những cuộc thuyết trình vòng quanh thế giới
Sau đó Helen và Anne bắt đầu những cuộc thuyết trình vòng quanh thế giới và sống khá thoải mái nhờ thù lao từ những buổi thuyết trình của họ. Nhưng nhu cầu nghe của khán thính giả ngày càng giảm dần. Họ chuyển qua làm kịch vui và thu được nhiều thành công vang dội với thù lao khoảng hai ngàn đô la mỗi tuần. Đó là một số tiền rất lớn thời bấy giờ.
Năm 1918, Helen, Anne và John chuyển đến sống tại Forrest Hills, New York. Helen sử dụng ngôi nhà của họ làm cơ sở gây quỹ từ thiện giúp người mù và điếc.
Năm 1922, Anne mắc bệnh viêm phổi và yếu dần. Polly Thomson, cô thư ký cho Helen và Anne tiếp tục vai trò của Anne trên sân khấu: trở thành người “phiên dịch” cho Helen trước khán thính giả.
Helen và Polly tiếp tục chu du khắp nơi trên thế giới để gây quỹ giúp đỡ người mù. Năm 1931, họ được Vua George và Hoàng hậu Mary của Anh Quốc mời vào tiếp kiến tại Điện Buckingham vì ngưỡng mộ tài năng của Helen trong việc “nghe” được người khác bằng đôi tay (không phải đôi tai - ND) của mình.
Ngày 20/10/1936, Anne qua đời. Helen bỗng cảm thấy trở lại đơn độc như những ngày thơ ấu. Nhưng cô không cho phép mình đầu hàng số phận. Cùng Polly, họ lại tiếp tục tiến bước.
Một con người có ảnh hưởng trong thời đại của mình.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939-1945), Helen và Polly đi các nước Nhật, Úc, Nam Phi, châu Âu, châu Phi để gây quỹ cho Tổ chức Những Người Mù Hải ngoại Hoa Kỳ. Nếu không nhờ những ngày tháng học chữ, học nói cùng Anne, có lẽ giờ đây Helen không có cách nào giao tiếp được với mọi người từ khắp nơi trên thế giới như thế.
Trên đường đi vòng quanh thế giới, họ nhận được tin căn nhà ở Arcan Ridge, nơi hai người dọn về ở sau cái chết của Anne Sullivan, bị hỏa hoạn thiêu hủy hoàn toàn, trong đó có cả bản thảo cuốn sách bà vừa mới viết về Anne, có tựa đề Teacher (Cô giáo của tôi).
Năm 1953, một bộ phim tài liệu có tên The Unconquored (Người không bị khuất phục) nói về cuộc đời Helen Keller được trao giải Oscar dành cho phim tài liệu hay nhất. Cũng năm đó, Helen viết lại cuốn Teacher, cuốn sách có bản thảo bị thiêu rụi 7 năm trước đó. Cuối cùng, cuốn sách được xuất bản vào năm 1955.
Năm 1957, vở “The Miracle Worker”, một vở kịch nói về thành công đầu tiên của Anne Sullivan trong việc giao tiếp với Helen khi còn bé, được dàn dựng và truyền hình trực tiếp lần đầu tiên ở Mỹ. Năm 1959, vở kịch được dàn dựng trên sân khấu Broadway và đem lại thành công vang dội. Năm 1962, nó được dựng thành phim và hai diễn viên vào vai Helen và Anne đã nhận được hai giải Oscar diễn viên xuất sắc nhất.
Năm 1960, đến lượt Polly Thomson qua đời vì hậu quả của những lần đột quỵ kéo dài. Tro cốt của bà được đặt cạnh tro cốt của Anne Sullivan bên trong Nhà thờ Chánh tòa Quốc gia tại Thủ đô Washington. Winnie Corbally sau những ngày tháng được chọn chăm sóc cho Polly giờ tiếp tục sống với Helen trong những năm cuối đời bà.
Tháng 10 năm 1961, Helen bắt đầu hứng chịu những cơn đột quỵ đầu tiên. Bà ít giao thiệp với công chúng hơn và rút lui hẳn trong thời gian ngắn sau đó.
Năm 1964, Helen được trao tặng Huân chương Tự do của Tổng thống Mỹ. Một năm sau, bà được ghi tên vào Nhà Danh vọng Hoa Kỳ.
Ngày 01/06/1968, Helen qua đời một cách bình yên trong một giấc ngủ tại căn nhà của bà ở Arcan Ridge. Hài cốt bà được đưa về đặt bên cạnh hai người bạn lớn, Anne Sullivan và Polly Thomson, tại Nhà thờ Chánh tòa Quốc gia Washington.
Ngày nay, nơi yên nghỉ của Helen là một điểm du lịch có sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách Mỹ và quốc tế. Một tấm bia đồng được dựng lên có khắc dòng chữ kiểu Braille để tưởng niệm Helen Keller và hai người đồng hành thân thiết của bà. Du khách nào đến đó cũng muốn một lần sờ vào tấm bia có hàng chữ nổi, đến độ người ta đã phải thay tấm bia đó hai lần kể từ ngày nó được dựng lên lần đầu tiên.
Trong quyển tự truyện của mình, The Story of My Life, Helen viết rằng “người mù cũng là một con người bình thường và không ai được phép trêu ghẹo họ hay làm họ tổn thương”. Nếu không có Helen, có lẽ rất nhiều người trong số các sinh viên của bà đã không có được trình độ học vấn như hiện nay.
Cần nói thêm rằng, năm 1932 bà nhận chức Phó Chủ tịch Học viện Hoàng gia dành cho Người mù của Vương quốc Anh. Năm 1946, bà được chọn làm cố vấn quan hệ quốc tế cho Hội Người Mù Hoa Kỳ ở Nước ngoài (sau đổi tên thành Tổ chức Quốc tế Helen Keller). Bà đã từng đi 35 nước qua 7 chuyến công du và diễn thuyết trong vòng 11 năm.
Helen Keller nhận bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Temple, Đại học Harvard, và của nhiều trường Đại học khác như Glasgow, Berlin, Delhi, Johannesburg. Nhà Danh vọng Hoa Kỳ trân trọng dành riêng một gian phòng để trưng bày bộ sưu tập về thư từ, kỷ vật của bà cùng những huân, huy chương mà bà từng được trao tặng, trong đó có Huân chương Chữ thập của Chính phủ Brazil, Huân chương Tận hiến của Chính phủ Nhật Bản, Giải thưởng dành cho cá nhân có những hoạt động nhân đạo xuất sắc của tổ chức Lions.
Nhưng hơn tất cả những vinh dự lớn lao Helen Keller đã đạt được là sự cảm thông, là tình bạn và tình hữu nghị mà bà đã xây dựng ở khắp nơi trên thế giới, từ những con người bình thường cho đến các nhà lãnh đạo hàng đầu vào thời của bà. Hầu như trong số những danh nhân thời đó, chỉ còn Charlie Chaplin, Nehru và John F. Kennedy là bà chưa gặp mặt. Bà thực sự là một vị đại sứ chung của cả thế giới và là một lãnh tụ lỗi lạc, người luôn phấn đấu hết mình vì một tương lai tươi sáng hơn cho những con người không may phải sống trong bóng tối hay trong một thế giới không có âm thanh. Cuộc đời Helen Keller thật khác so với rất nhiều người trong chúng ta, và bà cũng đã làm được nhiều điều thật khác biệt cho thế giới này!
HELEN KELLER

 “Bạn có thể làm được mọi thứ nếu bạn có niềm tin vững chắc ở bản thân, một ý chí mạnh mẽ,  một trái tim vĩ đại, và một vài thần tượng để bạn noi theo.” 
- Tyrone “Mugsy” Bogues 



Nguồn: Nơi nào có ý chí nơi đó có con đường - First News và NXB Tổng hợp TPHCM phối hợp ấn hành

Sức mạnh của ý chí

“Tôi luôn tin rằng tôi có thể đi lại bình thường, và đó là sự thật. Giờ đây tôi sẽ chạy, và chạy nhanh hơn bất kỳ người nào khác!”
Tại ngôi trường làng nhỏ bé của một vùng quê nghèo thuộc bang Kansas, Mỹ, có một cậu học trò bảy tuổi thường đi học sớm để đốt lò sưởi cho cả lớp.
Một sáng nọ, khi vừa bước đến cửa lớp, bọn trẻ nhìn thấy lửa cháy tràn lan khắp phòng học. Chúng hốt hoảng khi nhìn thấy người bạn tốt bụng của mình đang nằm bất tỉnh trên nền nhà. Mọi người nhanh chóng kéo cậu ra ngoài và đưa cậu đến trạm xá trong tình trạng thập tử nhất sinh: cậu bị phỏng gần hết phần thân dưới.
Từ trên giường bệnh, cậu bé lại ngất xỉu một lần nữa khi nghe bác sĩ nói với mẹ cậu rằng cậu đã hết phương cứu chữa, rằng cậu sẽ chết trong vài ngày tới vì ngọn lửa đã tàn phá gần như toàn bộ phần thân thể từ bụng xuống đến chân cậu.
Nhưng cậu trò nhỏ không muốn chết. Cậu quyết định phải sống bằng mọi giá. Và, trước sự kinh ngạc của các nhân viên y tế, cậu đã thực sự sống sót. Khi lưỡi hái tử thần đã đi qua, cậu lại nghe bác sĩ và mẹ cậu nói thầm gì đó với nhau. Bác sĩ bảo rằng thịt da cậu đã bị lửa nướng chín gần hết, rằng cái chết có lẽ là tốt hơn cho cậu vì cậu sẽ sống cuộc đời còn lại trên một đôi chân què quặt.
Một lần nữa cậu bé dũng cảm hạ quyết tâm, rằng cậu sẽ chẳng chịu làm một đứa trẻ tật nguyền, cậu phải đi, chạy, nhảy như  các bạn của mình. Nhưng sự thật là cậu chẳng thể cử động được gì từ thắt lưng trở xuống, toàn bộ phần dưới cơ thể cậu chỉ là một sự bất động.
Cuối cùng cậu cũng được xuất viện. Mẹ cậu xoa bóp đôi chân nhỏ bé của cậu mỗi ngày nhưng cậu  vẫn không hề có cảm giác gì, cậu hoàn toàn không điều khiển được phần dưới cơ thể mình. Nhưng, ý chí của cậu thì mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Một buổi sáng nọ, khi mẹ cậu đẩy cậu ra sân để hít thở khí trời và tắm nắng, cậu vùng dậy nẩy người ra khỏi chiếc xe lăn rơi đánh phịch xuống đất. Cậu bò, cậu trườn, cậu toài người vào đám cỏ, kéo lê đôi chân tật nguyền phía sau. Cậu nhắm thẳng hàng rào mà bươn tới, rồi bằng một nỗ lực bất ngờ, cậu với nắm lấy bờ rào, và đứng dậy.
Cứ thế, hết ngày này sang ngày khác, cậu ra vườn và men theo bờ rào tập đi. Chẳng mấy chốc, quanh nhà cậu là một con đường mòn nhẵn thín. Trong lòng cậu chỉ có một mong muốn duy nhất là phải sống trên chính đôi chân của mình.
Chính nhờ bàn tay dịu dàng của mẹ và ý chí kiên cường của chính bản thân, cậu đã có thể đứng lên, bước đi, và … chạy.
Năm mười hai tuổi, cậu đi học trở lại, cậu chạy bộ đến trường, rồi cậu chạy thi và đánh bại mọi vận động viên khác ở cùng lứa tuổi. Cậu chạy vì niềm vui được chạy nhảy và cuối cùng, khi trưởng thành, cậu chạy với tư cách là một vận động viên chuyên nghiệp giữa các sân vận động danh tiếng trên thế giới trong tiếng reo hò vang dậy của hàng triệu triệu người hâm mộ.
Đó là chân dung nhà vô địch Glenn Cunningham, “Người đàn ông thép của Kansas” (Kansas Ironman), “Cánh én Kansas” (Kansas Flyer), “Con ngựa sắt vùng Kansas” (Iron Horse of Kansas), và “Con tàu tốc hành Elkhart” (Elkhart Express), những biệt danh do báo chí và người hâm mộ đặt cho ông, người phá kỷ lục thế giới cự ly chạy 1 dặm với thành tích 4’06”08 vào năm 1934, khi ông chưa đến tuổi 25.
“Tôi luôn tin rằng tôi có thể đi lại bình thường, và đó là sự thật. Giờ đây tôi sẽ chạy, và chạy nhanh hơn bất kỳ người nào khác!”, Glenn phát biểu như thế sau khi lập kỷ lục thế giới.
Glenn Cunningham được vinh danh tại Quảng trường Madison là một trong những vận động viên điền kinh xuất sắc nhất của Mỹ thế kỷ 20.
Ông mất ngày 10/03/1988 tại Menifee, bang Arkansas, Hoa Kỳ, ở tuổi 80.
GLENN CUNNINGHAM

“Khi tin rằng mình có thể làm được điều gì, thì chắc chắn bạn sẽ đạt được điều ấy.”
- Maxwell Maltz



Nguồn: Nơi nào có ý chí nơi đó có con đường - First News và NXB Tổng hợp TPHCM phối hợp ấn hành

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Popular Posts

Blogger news

About




Powered by  MyPagerank.Net

Academics Blogs
Bookmark and Share

Blog Archive